Welcome to my blog

In this blog I will be posting short stories, and videos about my life.

Follow Me!

Hiện nay có rất nhiều loại hình hotel phổ thông, bạn muốn kinh doanh hotel thì bạn cần phải hiểu rõ các loại hình để chọn 1 loại hình phù hợp cho việc hoạt động kinh doanh của mình. Phổ biến hiện giờ thường xem xét theo tiêu chuẩn sao (star). Khách sạn càng nhiều sao thì có quy mô càng lớn và đầy đủ các dịch vụ phục vụ khách. Xếp loại hình khách sạn vào quy mô buồng phòng thì chia thành các mức: Khách sạn nhỏ: 1 đến 150 phòng Khách sạn vừa: 151 tới 400 phòng Khách sạn lớn: 401 đến 1500 phòng Khách sạn Mega: trên 1500 phòng Xếp loại hình khách sạn theo đặc thù khách hàng chính yếu, bao gồm: Khách sạn thương mại (commercial hotel) Là lọai hình hotel thường tập kết ở các thành phố lớn hoặc các khu trung tâm thương mại, đối tượng chính là khách thương nhân nhưng thực tế hiện thời là đối tượng khách du lịch. Thời gian tạm cư ngắn hạn. Khách sạn sân bay (airport hotel) Airport Khách sạn tọa lạc gần các sân bay quốc tế. tỉ dụ như hotel sân bay Tân Sơn Nhất…


Đối tượng chính là các nhân sự phi hành đoàn, khách chờ visa… Thời gian tạm cư ngắn. Khach san bình dân (Hostel/Inn) Không nằm trong trung tâm thành thị, nằm gần các bến xe, nhà ga… đối với các nhân thể nghi tối thiểu. tỉ dụ khu du lịch ba lô… Đối tượng là khách bình dân, túi tiền vừa phải. Khách sạn sòng bạc (Casino hotel) Chủ yếu đáp ứng các dịch vụ và nhu cầu chơi, giải trí, cờ bạc… thường được xây dựng lộng lẫy, các trang thiết bị cao cấp. Ví dụ như các khách sạn ở Ma Cao, Las Vegas, … Đối tượng khách có nhu cầu giải trí cờ bạc các loại. Thời gian tạm trú ngắn. Hotel nghỉ dưỡng (resort hotel) Nằm ở các vùng cao nguyên, ven biển, hải đảo, vịnh, thung lũng… Thí dụ Phan Thiết, Mũi Né, Nha Trang, Vũng Tàu… Đối tượng khách có nhu cầu nghĩ dưỡng, nghĩ bệnh… Lưu trú ngắn hạn. Khach san căn hộ (suite hotel/apartment) Nằm trong các thành phố lớn, có các loại phòng đối với diện tích lớn, đầy đủ các tiện nghi như 1 căn hộ với các phòng công năng: phòng ăn- khách- ngủ-bếp. Đối tượng lưu trú là khách đi du lịch theo dạng gia đình, các chuyên gia đi công tác dài hạn có gia đình đi cùng. Lưu trú dài hạn. Nhà nghỉ ven xa lộ (Motel) Thường có nhiều ở nước ngoài, thường nằm trên các superhighway. Đối tượng là thực khách đi du lịch bằng xe môtô, xe hơi, khách có thể đậu xe trước cửa phòng mình. Chủ yếu là có chỗ ở qua đêm, ngắn hạn.
Một khach san kinh doanh thành công khi đem tới doanh thu cho khach san từ nguồn thu người mua hàng. Vậy bạn có biết đối tượng thực khách của các loại hình khách sạn này là những ai? Bài viết dưới đây, đất nước chúng ta sẽ cùng bạn tìm ra câu trả lời. Trước đây, khách sạn được xây dựng lên trước hết là để phục vụ cho khách du lịch, có nhu cầu lưu trú trong chuyến đi; nhưng trong quá trình phát triển, tính tới bây giờ, khách sạn dần trở thành địa điểm ngơi nghỉ tạm cư cho tất cả những ai có năng lực tính sổ và ước muốn được ngơi nghỉ. Vậy nên, để trả lời cho câu hỏi đối tượng khách hàng của khách sạn là những ai, bọn mình dựa vào loại dịch vụ mà khách hàng áp dụng tại khach san, từ đó có thể chia ra làm 2 nhóm chính. Đó là: một. Các nguồn khách đặt phòng khách sạn Tiếp theo là loại dịch vụ mang tới nguồn doanh thu cao nhất cho khách sạn. Vậy nên, khách sạn nào cũng muốn bán được càng nhiều phòng càng tốt. Để làm được điều này, họ phải đa dạng nhiều đối tượng khách. Nhìn chung, hồ hết các hotel sẽ có 3 nguồn khách đặt phòng chính. Đó là: Nguồn khách đặt phòng trực tiếp Khách trực tiếp theo hotel Khách gọi điện thoại Gửi thư tín, Fax, thư điện tử (email) Qua internet, trang mạng xã hội, web khách sạn Nguồn khách đặt phòng qua các đại lý trung gian Đại lý du lịch Hãng lữ hành Hãng hàng không Văn phòng du lịch địa phương Nguồn khách đặt phòng qua hệ thống đặt phòng trọng tâm Hệ thống đặt phòng trọng tâm thường được thiết lập giữa các khách sạn trong cùng một tập đoàn hoặc các tập đoàn khach san không giống nhau có kết liên thỏa thuận cùng nhau nhằm mục đích tạo tiện lợi cho khách hàng trong việc đặt phòng hotel. Ở Vn có dãy khách sạn Mường Thanh, Saigontourist, còn trên thế giới thì có Hyatt Hotels, Wyndham Hotel Group, Marriott International, Hilton Worldwide, Accor, InterContinental Hotels Group, … 2. Nguồn khách vận dụng các dịch vụ trong khách sạn Phần đông các hotel hiện nay ngoài việc công việc kinh doanh buồng phòng còn có thêm nha hang, spa, vui chơi tiêu khiển, …phục vụ mọi đối tượng khách hàng khi có nhu cầu. Vậy nên, có ba nguồn khách sử dụng các dịch vụ trong khách sạn. Đó là: Khách du lịch Trường hợp khách sạn là môi trường tổ chức tiếp đón phục vụ khách thì khách du lịch được chia thành khách du lịch quốc tế và khách du lịch nội địa. Khách du lịch quốc tế: là những người nước ngoài, đi du lịch tới 1 nhà nước khác ngoài phạm vi cư trú. Khách du lịch trong nước: là tất cả những con người đang đi du lịch trong khuôn khổ lãnh thổ của một nhà nước (bao gồm khách du lịch nội địa và khách quốc tế đi vào) Đối tượng khách du lịch này thường áp dụng hầu như toàn bộ các dịch vụ tại khách sạn như lưu trú, ăn uống, nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí, … Khách vãng lai Khách vãng lai là loại khách chỉ dừng chân tạm trong ngày, trong chuyến hành trình của họ và sử dụng chủ yếu là dịch vụ ăn uống và các dịch vụ bổ sung khác, còn dịch vụ tạm trú rất ít hoặc không áp dụng. Khách địa phương (cư dân ở tại đó) Là những người sinh sống tại địa bàn vị trí khách sạn xây dựng, họ là đối tượng khách có nhu cầu áp dụng các hàng hóa dịch vụ của hotel, chính yếu là dịch vụ ăn uống, spa, vui chơi giải trí.
- Đặc điểm về sản phẩm: Hàng hóa của kinh doanh khách sạn cốt tử là các dịch vụ, tồn tại dưới dạng vô hình. Quá trình sản xuất ra sản phẩm và quá trình bán hàng hóa diễn ra đồng thời, trong quá trình đó, người tiêu vận dụng tự tìm đến mặt hàng. Do ước tính cách giữa người cung cấp dịch vụ và người mua hàng là rất “ngắn” nên yếu tố tâm lý con người có vai trò rất lớn trong việc phê duyệt chất lượng mặt hàng. Thực tế, quá trình sản xuất và tiêu thụ hàng hóa của các kiểu khách sạn được diễn ra gần như đồng thời nên các sản phẩm đó phải được hoàn thiện ở mức độ cao nhất, không có phế truất phẩm và cũng không có sản phẩm lưu kho, khả năng thu nạp của khach san quyết định đến doanh thu và hiệu quả công việc kinh doanh của công ty. Một đặc điểm nữa, đặc trưng cho sản phẩm của khach san là tính cao cấp. Khách của hotel chủ yếu là khách du lịch. Họ là những con người có năng lực tính sổ và năng lực chi trả cao hơn mức tiêu dùng bình thường. Vì vậy, yêu cầu yêu cầu về chất lượng sản phẩm mà họ bỏ tiền ra mua trong suốt thời kì đi du lịch là rất cao. Để cung ứng tốt thực khách, các khách sạn kiên cố phải tổ chức cung ứng các sản phẩm có điểm chất lượng cao. Hay nói theo kiểu khác, khách sạn muốn tồn tại và phát triển thì phải dựa trên cở sở cung ứng những mặt hàng có chất lượng cao mà thôi. - Đặc điểm về đối tượng phục vụ: Đối tượng phục vụ của khach san là rất đa dạng và phong phú, thuộc nhiều từng lớp địa vị xã hội, quốc tịch, tuổi tác và giới tính khác nhau… Cho nên, người quản lý khach san phải nắm bắt được đặc trưng tâm lý, nhu cầu của từng đối tượng, đảm bảo cho việc phục vụ được tốt hơn. Xuất hành từ đặc trưng này, vấn đề đặt ra cho mỗi khách sạn là không thể đáp ứng tốt nhu cầu của tất cả các đối tượng khách hàng mà phải tuyển lựa cho mình một đối tượng phục vụ phổ biến nhất, có khả năng đem lại lợi nhuận cao - Đó chính là quá trình xác định người mua hàng mục tiêu - Đặc trưng về việc dùng các nguyên tố nguồn lực trong hoạt động kinh doanh hotel: Hoạt động kinh kinh doanh khách sạn chỉ sự thành công khi biết khai thác 1 cách hiệu quả nguồn tài nguyên du lịch. Tài nguyên du lịch là nhân tố thúc đẩy con người đi du lịch, đây là nguyên tố quyết định nguồn khách của khách sạn. Ngoài ra, khả năng tiếp nhận tài nguyên du lịch ở mỗi điểm du lịch sẽ quyết định quy mô và thứ hạng của khách sạn. Rõ ràng, trong kinh doanh hotel, tài nguyên du lịch đóng một vài trò chủ chốt, xác lập số lượng và đối tượng khách đến khách sạn song song nó cũng quyết định đến quy mô, đẳng cấp và hiệu quả kinh doanh của hotel. Hoạt động kinh doanh khách sạn đòi hỏi vốn đầu tư ban đầu tương đối cao. Đặc điểm này xuất phát từ tính chất cao cấp của các mặt hàng khách sạn, đòi hỏi các nguyên tố thuộc về cơ sở vật chất kỹ thuật của khách sạn cũng phải cao cấp tương ứng. Sự sang trọng của các trang thiết bị lắp đặt trong nội bộ khách sạn chính là 1 trong những nguyên nhân chính đẩy chi phí đầu tư khách sạn lên cao. Việc sử dụng nguồn nhân lực trong kinh doanh hotel có ý nghĩa rất quan trọng và cũng là một nhân tố quyết định đến hiệu quả kinh doanh. Chất lượng sản phẩm của khách sạn được đo bằng cảm nhận của khách hàng, thành ra, các hiểu biết về văn hoá ứng xử, tâm lý hành vi… phải được đặc biệt chú trọng trong quá trình tuyển dụng người làm thuê cho hotel. Ngoài ra, do các khâu trong quá trình cung ứng các hàng hóa của hotel đều phải được thực hành bằng chính bàn tay của con người, khó có thể thực hiện cơ khí hoá, nên lực lượng cần lao trực tiếp trong hoạt động kinh doanh khách sạn thường là không nhỏ. Đây là một đặc điểm nổi bật về nguồn nhân lực trong kinh doanh khach san. - Tính quy luật trong công việc kinh doanh khách sạn: Hoạt động kinh doanh khách sạn chịu sự chi phối của các quy luật thiên nhiên, quy luật kinh tế- xã hội, quy luật về tâm lý của con người. Tác động của các quy luật, đặc biệt là các quy luật tự nhiên như thời tiết, khí hậu… của một khu vực có tác động đáng kể tới khả năng khai hoang các tài nguyên du lịch trong vùng và hình thành nên tính mùa vụ trong hoạt động kinh doanh du lịch. Tác động của các quy luật kinh tế xã hội, văn hoá, lề thói từ những địa phương khác nhau hình thành nên tính đa dạng và khác biệt về nhu cầu của những đối tượng khách hàng - đây là cơ sở để các hotel đa dạng hoá sản phẩm và đối tượng phục vụ của mình [16]. Việc nghiên cứu kỹ các quy luật và sự liên quan của chúng đến kết quả công việc kinh doanh sẽ giúp các hotel chủ động đề ra những biện pháp và cách thức kinh doanh hiệu quả.
I BUILT MY SITE FOR FREE USING